Tường Lạc Đà

Chương 3: Tường Lạc Đà Chương 3


Đã chạy được hai ba chục bước rồi, Tường lại không muốn chạy nữa. Anh ta tiếc mấy con lạc đà kia. Gia tài của anh ta trên thế gian này hiện nay chỉ còn cái thân xác mà thôi. Dù chỉ là một đoạn thừng, anh ta cũng vui lòng nhặt lấy, không dùng được việc gì, thì cũng có thể an ủi cho anh ta phần nào, ít nhất trong tay cũng còn có được một đoạn thừng, không đến nỗi hoàn toàn tay trắng. Đành rằng phải chạy trốn, nhưng trần như nhộng, thì trốn làm gì? Anh ta nhất định phải kéo theo mấy con lạc đà kia. Tuy chưa nghĩ ra lạc đà sẽ được việc gì, nhưng dù sao cũng gọi là có, và cũng không phải là nhỏ mọn.

Anh ta lôi lạc đà đứng lên. Anh ta không thạo cách điều khiển chúng, nhưng anh ta không sợ, vì vốn người thôn quê nên anh ta dám đến gần các loại súc vật. Mấy con lạc đà chậm rãi đứng lên. Anh ta cũng chẳng nghĩ đến chuyện xem chúng nó có bị buộc lại với nhau hay không. Thấy dắt được, thế là anh ta liền rảo bước, không biết dắt một con hay cả bầy.

Vừa bước anh ta đã hối ngay, lạc đà phía trong cửa ải thường quen chở nặng nên đi chậm. Không những chậm mà còn thận trọng dò từng bước một. Lạc đà sợ trơn, một vũng nước, một vũng bùn, đều có thể làm chúng nó gãy chân hoặc trật bánh chè. Giá trị của lạc đà là ở bốn cái chân; chân gẫy thì hỏng hết! Mà Tường lại muốn thoát thân!

Nhưng anh ta không muốn bỏ chúng lại. Thôi thì muốn sự nhờ trời, mấy con lạc đà kia không mất tiền mua lẽ nào lại bỏ!

Vì kéo xe quen, Tường phân biệt phương hướng khá lắm. Tuy vậy, lòng anh lúc này hơi bối rối. Khi tìm được lạc đà, tâm trí anh ta hầu như đế cả vào chúng nó; đến khi lôi được chúng nó đứng lên, thì anh ta không còn biết đâu vào đâu nữa. Trời thì tối đen, bụng thì lo cuống cuồng, dù có biết nhìn sao đế tìm hướng, anh ta cũng chẳng thể ung dung mà nhìn. Theo con mắt anh ta, thì sao dường như còn luống cuống hơn cả anh ta nữa kia, cứ ngôi nọ va vào ngôi kia, ngôi kia va vào ngôi nọ, rối lên giữa bầu trời đen kịt. Tường không dám nhìn lên cứ cúi đầu tiến về phía trước, lòng lo sợ mà chân lại không dám bước nhanh. Anh ta nghĩ thế này: đã dắt lạc đà thì phải đi theo đường lớn, không thể cứ men theo sườn núi được. Từ Ma Thạch Khẩu - nếu như đây là Ma Thạch Khẩu - đến Hoàng Thôn là đường thẳng. Đó là đường cái cho lạc đà, và lại không phải đi vòng quanh. Đối với một anh phu xe, "đường không vòng quanh" có một giá trị rất lớn. Có điều, trên con đường này không có chỗ nào khuất cả. Nhỡ lại gặp lính thì sao? Dù không gặp đại binh, thì bộ quần áo lính rách mướp trên người, bùn đất trên mặt, với cái bộ tóc lù xù kia, liệu có thể làm cho người ta tin mình dong lạc đà được không? Không giống! Hoàn toàn không giống một anh dong lạc đà, nhưng lại rất giống một tên lính đào ngũ! Lính đào ngũ, quan trên tóm được là chuyện vặt thôi, nhưng dân làng tóm được, ít nhất cũng bị chôn sống! Nghĩ tới đó, anh ta run lên. Phía sau lưng, móng lạc đà khẽ gõ xuống mặt đường bỗng làm anh ta giật mình hoảng sợ. Muốn chạy thoát lấy thân thì phải quẳng mấy của nợ này lại, nhưng rút cục tay anh ta vẫn không chịu rời sợi thừng xỏ mũi lạc đà. Thôi thì cứ đi vậy, đến đâu hay đấy, gặp gì sẽ liệu sau. Sống thì thế là vớ được mấy con lạc đà! Chết thì đành với số phận!

Anh ta cởi chiếc áo lính, xé phứt cái cổ đi. Cả đôi khuy đồng còn chắc kia cũng dứt ra, quang vào bóng tối, chẳng nghe lấy một tiếng động. Sau đó, anh ta vắt chiếc áo không cổ không khuy đó lên người, hai ống tay buộc lại trước ngực, trông y như người đeo ba-lô. Anh ta cho như vậy sẽ làm người ta đỡ nghi là lính bại trận. Quần cũng xắn cao lên. Anh ta biết như thế chưa phải hoàn toàn giống người dong lạc đà, nhưng ít nhất cũng không phải hoàn toàn giống lính đào ngũ. Lại thêm bùn đầy mặt, mồ hôi đầy áo, đại khái cũng gần giống: "anh bán than". Anh ta suy nghĩ rất chậm, nhưng rất chu đáo, và nghĩ ra được thì liền làm ngay. Đêm khuya tối tăm, chẳng ai thấy anh ta: anh ta vốn không phải làm như vậy ngay, nhưng anh ta không thể chờ đợi được. Anh ta không biết giờ giấc, có thể bỗng chốc trời sáng rõ. Đã không men theo đường núi thì ban ngày sẽ chẳng có chỗ nào mà ẩn nấp. Nếu ban ngày ban mặt mà cứ phải đi thì nên làm cho người ta tin mình là người bán than. Nghĩ thế, anh ta liền làm thế. Anh ta hoi mừng thầm trong bụng, dường như nguy hiểm đã qua, mà trước mắt là Bắc Bình rồi. Anh ta cần phải đi thật nhanh và yên ổn đến thành phố, bởi vì trong người không có lấy một đồng xu, không có lấy ít lương khô, chần chừ sao được. Nghĩ đến đó, anh ta định cưỡi lên lạc đà cho đõ mệt, như thế có thể chịu đói lâu hơn. Nhưng rồi lại không dám cưỡi, dù cho có dễ cưỡi, trước hết cũng bảo nó quỳ xuống mới trèo lên được. Thì giờ quý báu, không thể vẽ chuyện thêm phiền. Huống hồ, ngồi trên cao thì lại không trông rõ phía dưới chân, nếu lạc đà trượt ngã thi anh ta cũng lăn theo nốt. Không, cứ thế này thôi!

Đại khái anh ta cảm thấy đang đi theo đường cái. Đi về hướng nào, qua những chỗ nào, đều mù tịt. Đêm đã khuya. Mấy ngày nay mệt nhọc, khi bỏ trốn lại sợ hãi, cả tâm thần lẫn thể xác anh ta đều cảm thấy khó chịu. Đi được một thôi đường, bước chân cứ chầm chậm đều đều. Dần dần anh ta thấy buồn ngủ. Trời vẫn tối đen. Sương xuống lạnh và ẩm. Anh ta cứ thấy mơ mơ màng màng. Căng mắt ra mà nhìn mặt đường, thấy dường như chỗ nào cũng gồ ghề mấp mô, nhưng đặt chân xuống thì lại thấy bằng phẳng. Cẩn thận thế mà lại bị đánh lừa, anh ta càng không yên lòng, hầu như có phần bực bội. Dứt khoát không nhìn đường nữa, mà cứ nhìn thẳng, lây chân dò mà đi cũng được. Xung quanh chả trông thấy gì cả, dường như bóng tối của cả thế gian đang chờ đón anh ta, anh ta từ bóng tối đi ra, rồi lại trở vào trong bóng tối. Phía sau là mấy con lạc đà câm lặng như hến.

Dần dần anh ta đã quen với bóng tối, trong lòng cũng đã yên tĩnh, và mắt thì cứ díp lại. Chẳng hiểu là đang bước hay đã đứng dừng lại rồi, anh ta cứ thấy chập chờn, y như mặt bể đen ngòm đang nhấp nhô gợn sóng. Tâm thần anh ta cùng với bóng đen hòa thành một khối, cùng mơ mơ màng màng, cùng chập chà chập chờn, cùng bồn chồn hốt hoảng. Bỗng anh ta sực tỉnh, dường như nhớ ra chuyện gì, mà cũng dường như có nghe thấy tiếng động gì đó, không nói rõ ra được, và anh ta lại căng mắt ra. Rõ ràng anh ta vẫn đang bước. Anh ta quên mất lúc nãy vừa nghĩ tới cái gì. Xung quanh vẫn yên lặng như tờ. Trống ngực đổ dồn một hổi, dần dần lặng xuống. Anh ta tự nhủ không nên nhắm mắt lại nữa, và cũng đừng nên nghĩ vớ vẩn, việc quan trọng nhất là vào được thành phố. Nhưng óc không nghĩ ngợi gì thì mắt dễ díp lại. Anh ta cần phải nghĩ đến một chuyện gì đó, để tỉnh ngủ. Anh ta biết rằng, nếu nằm lăn ra đây, thì có thể đánh một giấc ba ngày liền. Nghĩ gì bây giờ nhỉ? Đầu óc anh ta hơi choáng váng, người nhơm nhớp khó chịu, tóc ngứa ngáy, chân đau, miệng khô. Anh ta không nghĩ được gì khác, chỉ thương cho thân mình.

Nhưng ngay đến chuyện của bản thân anh ta, anh ta cũng không thể suy nghĩ cho kỹ càng. Đầu óc anh ta choáng váng và trống rỗng, dường như vừa nghĩ tới mình, thì lại quên ngay mình, y như cây nến sắp tắt, không chiếu sáng được bản thân nó. Lại thêm bốn xung quanh tối mò mò, khiến anh ta cảm thấy như anh ta đang vật vờ trong một bầu không khí đen ngòm, tuy biết mình vẫn còn sống, vẫn còn bước tới, nhưng không có cái gì chứng tỏ rằng mình vẫn đang đi, y như người trôi nổi một mình giữa biển khơi, không dám tin ở mình. Anh ta chưa từng lo buồn, nghi ngờ và cô quạnh đến như thế này bao giờ. Thường ngày, anh ta không thích đàn đúm bạn bè, nhưng một mình đứng dưới ánh nắng mặt trời, được mặt trời chiếu rọi khắp tứ chi, nhìn thấy vật này vật kia hiện ra trước mắt, anh ta cũng không đến nỗi sợ hãi. Bây giờ đây, tuy anh ta chưa cảm thấy sợ, nhưng cái cảm giác không xác định được gì cả khiến anh ta không thể chịu được. Giá thử mấy con lạc đà kia cũng láu lỉnh như lừa ngựa thì có lẽ anh ta phải tập trung tinh thần mà chú ý tới chúng nó. Nhưng lạc đà thì lại hiền lành như thế kia, lành đến nỗi khiến anh ta phải sốt ruột. Trong lúc tâm thần hốt hoảng, anh ta bỗng đâm ra nghi ngờ không hiểu chúng nó còn ở phía sau mình nữa hay không. Anh ta giật mình đánh thót một cái. Dường như anh ta tin rằng mấy con vật to lớn đó có thể nhẹ nhàng lẻn vào đường rẽ nào đó tôi mò mò, mà anh ta không biết gì hết, y như người lôi một tảng nước đá, dần dần tan biến đi đâu mất cả.

Chẳng hiểu anh ta ngồi xuống lúc nào. Dù cho lúc đó anh ta có chết đi vẫn còn tri giác, anh ta cũng không thể biết được mình đã ngồi xuống như thế nào, và vì sao lại ngồi xuống. Ngồi độ năm phút, cũng có thể là một tiếng đồng hồ, anh ta chẳng biết nữa. Anh ta cũng không biết mình ngồi xuống rồi mới ngủ hay là ngủ rồi mới ngồi. Có lẽ anh ta ngủ rồi mới ngồi, bởi vì anh ta đã mệt mỏi đến mức có thể đứng mà ngủ thiếp đi được.

Anh ta bỗng sực tình. Không phải ngủ no mắt rồi tự nhiên tỉnh dậy, mà là giật mình tình dậy, y như từ thế giới này nhảy sang thế giới khác, chỉ trong chớp mắt.

Anh ta thấy vẫn tối om, nhưng đã nghe rất rõ có tiếng gà gáy, rõ lắm như có một vật gì cứng vạch vào óc. Anh ta tỉnh hẳn. Lạc đà đâu rồi? Anh ta chẳng còn nghĩ đến chuyện gì khác nữa. Dây thừng vẫn trong tay, lạc đà vẫn ở cạnh anh ta, thế là anh ta yên tâm. Anh ta không buồn đứng dậy. Người mỏi nhừ, nhưng cũng không dám ngủ nữa. Anh ta cần phải suy tính, suy tính cho kỹ càng, tìm ra một cách gì đó thật hay. Giữa lúc đó anh ta nghĩ đến cái xe của anh ta, và anh ta kêu lên: "Trông mong vào đâu bây giờ?".

"Trông mong vào đâu bây giờ?" - Kêu suông như thế chẳng ăn thua gì! Anh ta đi lại, sờ vào mấy con lạc đà kia, cho đến bây giờ, anh ta vẫn chưa biết anh ta lôi đi được mấy con. Sờ ra rồi, tất cả là ba con. Anh ta chẳng biết như thế nhiều quá hay là ít quá. Ý nghĩ của anh ta tập trung vào ba con lạc đà đó, tuy chưa dứt khoát là sẽ làm ăn ra sao, nhưng anh ta lờ mờ cảm thấy rằng, tương lai của anh ta trông chờ vào cả ba con vật này.

"Sao không đem bán quách đi, mua một cái xe khác?" Anh ta như muốn nhảy lên! Nhưng anh ta vẫn không nhúc nhích, tuồng như có vẻ xấu hổ vì từ nãy không sao nghĩ ra được con đường thoát hết sức dễ dàng, hết sức tiện lợi đó. Nỗi vui mừng át sự xấu hổ. Chí anh ta đã quyết. Vừa rồi chẳng phải nghe thấy tiếng gà gáy đó sao. Dù gà có khi một hai giờ đêm đã gáy, nhưng như vậy cũng chẳng mấy chốc nữa mà trời sáng. Đã có gà gáy tức là có xóm làng. Chưa biết chừng, đó là Bắc Tân An cũng nên. Ở đó có nuôi lạc đà, anh ta phải đến đó cho mau, vào lúc trời vừa sáng, bán được mấy con lạc đà đi là có thể vào thành phố mua luôn một chiếc xe. Loạn lạc thế này, xe tất phải rẻ. Anh ta chỉ nghĩ đến chuyện mua xe, dường như bán lạc đà là chuyện chẳng khó khăn chút nào cả.

Nghĩ đến mối quan hệ giữa lạc đà và mấy chiếc xe tay, anh ta thấy phấn chấn lên, khắp người dường như chả có chỗ nào đau đớn khó chịu cả. Giá thử anh ta nghĩ đem bán ba con lạc đà đó, có thể mua được một trăm mẫu ruộng, hoặc có thể mua được mấy hạt trân châu, thì anh ta cũng chẳng sướng đến thế. Anh ta đứng phắt dậy, kéo lạc đà đi. Anh ta không hiểu hiện nay giá lạc đà thế nào, chỉ nghe nói ngày xưa, cái thời chưa có xe lửa, một con lạc đà giá những năm mươi lượng bạc, bởi vì lạc đà khỏe, mà ăn lại đỡ tốn hơn lừa ngựa. Anh ta không mong bán được một trăm rưỡi lạng, chỉ mong được tám chín chục một trăm, vừa đủ mua chiếc xe thôi.

Càng đi trời càng sáng. Phải, ánh sáng ở phía trước, đúng là anh ta đang đi về hướng Đông. Dù nhầm đường, nhưng hướng thì không nhầm. Núi ở phía Tây, thành phố ờ phía Đông, anh ta biết rõ lắm. Bốn xung quanh, từ một vùng tối mò mò, dần dần đã thấy có chỗ tối chỗ sáng; tuy chưa phân biệt được màu sắc, nhưng đã thấy hình thù ruộng đồng cây cối phía xa chìm trong màu xám mênh mông. Sao thưa dần, trời phủ một lớp mây, mà lại cũng giống như một lớp sương, trông còn mờ mờ, nhưng so với lúc nãy thì cao hơn nhiều rồi. Hình như anh chàng Tường đã dám ngẩng đầu lên. Anh ta đã bắt đầu ngửi thấy mùi cỏ hai bên đường, và cũng đã nghe thấy mấy tiếng chim hót. Vì đã nhìn thấy hình bóng lờ mờ của các vật thể, tai mắt mồm mũi của anh ta dường như đều đã khôi phục được tác dụng vốn có của nó. Anh ta cũng đã thấy được mọi cái ở trên người anh ta, tuy rách rưới lôi thôi, nhưng vẫn có thể tin được rằng quả thực mình vẫn còn sống, y như sau cơn ác mộng, chợt tỉnh dậy, cảm thấy cuộc sống thật đáng quý. Nhìn người mình rồi, anh ta lại quay đầu nhìn mấy con lạc đà. Anh ta thấy chúng nó cũng lôi thôi lếch thếch như anh ta, nhưng cũng đáng yêu như anh ta. Bây giờ là lúc súc vật rụng lông, trên mình lạc đà cũng đã lòi ra những đám da màu nâu nâu, rải rác mới có vài túm lông dài lơ thơ, mềm nhũn, chưa biết rụng lúc nào. Trông chúng nó giống như mấy tên ăn mày khổng lồ trong loài thú. Đáng thương nhất là cái cổ dài và trụi kia, dài ngoằng, trơ trụi, cong cong, đần độn, vươn mãi ra phía trước, y như những con rồng gầy gò bất đắc chí. Nhưng Tường không hề ghét bỏ chúng nó. Mặc dù chúng nó nhếch nhác thế nào chăng nữa, thì chúng nó vẫn là những con vật sống. Anh ta tự cho mình là người may mắn nhất trên đời, trời cho anh ta ba con vật quý báu đủ để đổi lấy một chiếc xe, đó chẳng phải là việc ngày nào cũng gặp. Anh ta không nhịn được, bật cười lên.

Nền trời xám đã thấy hơi hồng. Ruộng đồng và cây cối ở phía xa sẫm lại. Màu hồng dần dần hòa lẫn với màu xám, chỗ tím, chỗ đỏ tươi, nhưng phần lớn nền trời vẫn màu xám. Lại một lát nữa, trong màu hồng có thêm màu vàng thắm, màu nào cũng sáng. Tất cả mọi vật bỗng đều trở nên rõ nét. Sau đó, ráng ở phương Đông biến thành đỏ thẫm, và trên đỉnh đầu, nền trời trở sang màu xanh lam. Ráng đỏ tan dần, ánh vàng phát ra từng luồng, ngang là ráng, dọc là ánh sáng, dệt thành một tấm lưới nhện rực rỡ khổng lồ ở góc trời phía Đông Nam. Ruộng lúa, cây cỏ từ màu xanh tối trở sang màu xanh biếc, lóng lánh. Cành thông già lấp lánh ánh vàng, cánh chim bay lấp lánh ánh vàng, mọi vật đều tươi cười hớn hở. Nhìn làn ánh sáng thắm tươi đó, Tường muốn reo lên. Từ khi bị lính bắt đi, hầu như anh ta không hề được nhìn thấy bầu trời, bụng thì cứ nguyền rủa, đầu thì cứ cúi gằm xuống, quên cả ngày tháng, quên cả ông Trời. Bây giờ đây, anh ta tự do đi trên đường, càng đi càng thấy sáng. Ánh sáng chiếu sáng những hạt sương trên cỏ, chiếu sáng cả tóc tai anh ta, sưởi ấm lòng anh ta. Anh ta quên đi mọi nỗi khổ sở, hiểm nghèo, đau đớn; mặc cho thân hình anh ta lam lũ bẩn thỉu đến thế nào, ánh sáng và hơi ấm của mặt trời vẫn không từ bỏ anh ta. Anh ta đang sống trong một vũ trụ có ánh sáng và hơi ấm. Anh ta sung sướng muốn reo lên!

Nhìn bộ quần áo rách rưới trên người, lại nhìn ba con lạc đà trụi lông đứng phía sau, anh ta cười. Anh ta nghĩ bốn mạng, người và vật, nhếch nhác thế kia mà lại có thể vượt khỏi vòng nguy hiểm, có thể dấn bước trên đường dưới ánh mặt trời thì lạ thật. Anh ta cho rằng chẳng cần nghĩ ai phải trái, tất cả đều là ý Trời. Anh ta yên trí bước thong thả, đã có Trời phù hộ cho thì chẳng lo sợ gì nữa. Đi đến đâu rồi? Anh ta không muốn hỏi, mặc dù đã thấy có đàn ông và đàn bà ra đồng làm. Cứ đi, lạc đà không bán được ngay hình như cũng chẳng có gì quan trọng lắm. Hãy vào thành đã rồi sẽ tính. Anh ta khao khát được thấy thành phố. Tuy ở đó anh ta không có bố mẹ thân thích, cũng chẳng có gia tài sản nghiệp, nhưng rút cục nơi đó vẫn là nhà anh ta. Cả thành phố đó là nhà anh ta, về đến đó là anh ta có thể xoay xở được. Phía xa có một xóm, không phải là xóm nhỏ, rặng liễu ngoài trông giống như một hàng vệ binh, xanh mà cao, cúi đầu nhìn những gian nhà thấp bé. Trên nóc vờn bay vài làn khói. Tiếng chó sủa xa xa vẳng tới, nghe rất vui tai. Anh ta chạy thẳng tới, chẳng phải nghĩ là sẽ gặp chuyện gì hay ở đó, mà dường như chỉ để tỏ ra anh ta chẳng sợ gì cả. Anh ta là người tốt ,lẽ dĩ nhiên chẳng sợ những người dân lành trong thôn xóm. Lúc này đây, ai nấy đểu đang sống dưới ánh nắng xán lạn và hòa bình. Nếu có thể được, anh ta sẽ xin một hớp nước; dù không xin được cũng chẳng sao. Anh ta đã không chết rấp ở trong núi thì bây giờ khát thêm chút nữa, có đáng kể vào đâu!

Bầy chó châu cả về phía anh ta mà sủa, anh ta không để ý; đàn bà trẻ con chăm chú nhìn anh ta, khiến anh ta đâm ra mất tự nhiên. Anh ta nghĩ, chắc mình phải là một người chăn dắt lạc đà kỳ quặc lắm, nếu không, sao mọi người lại ngẩn ra mà nhìn thế kia? Anh ta buồn lắm, lính tráng không coi anh ta là người, nay đến xóm làng, mọi người nhìn anh ta như nhìn một con quái vật! Anh ta chẳng biết xử trí ra sao. Vóc người anh ta, sức lực anh ta, xưa nay vẫn khiến anh ta kiêu hãnh và tự hào, nhưng những ngày vừa qua, vô duyên vô cớ mà anh ta phải chịu bao nhiêu nỗi uất ức khốn khổ. Nhìn lên một nóc nhà, anh ta lại thấy ánh nắng xán lạn, nhưng ánh nắng hầu như không còn đẹp như lúc nãy.

Trên con đường độc đạo trong xóm, phân lợn, phân ngựa và nước bẩn đọng lại thành từng vũng, mùi hôi thôi bốc lên. Sợ lạc đà trượt ngã, Tường muốn dừng nghỉ một lát. Phía bắc đường có một nhà khá giả, đằng sau là nhà ngói, cổng chỉ chắn bằng một hàng rào gỗ, không có cánh, mà cũng chẳng xây nóc. Tường thoáng nghĩ, nhà ngói, tất là nhà giàu; cổng không xây nóc, lại chỉ chắn bằng hàng rào, tất là nhà nuôi lạc đà! Hay lắm, nghi lại đây một lát, may ra có cơ bán được lạc đà đây!

"Sơ... sơ... sơ"...

Tường bảo lạc đà quỳ xuống, về các tiếng điều khiển lạc đà, anh ta chỉ biết mấy tiếng "sơ!" "sơ!" là bảo quỳ xuống. Anh ta dùng mấy tiếng đó một cách rất đắc ý, cốt tỏ cho người trong thôn biết anh ta cũng là một tay nhà nghề. Mấy con lạc đà quỳ xuống thật, và anh ta cũng đàng hoàng ngồi xuống dưới một cây liễu nhỏ. Mọi người nhìn anh ta, và anh ta cũng nhìn mọi người. Anh ta cho rằng, chỉ như vậy mới có thể làm cho người trong thôn bớt ngờ vực.

Ngồi một lát, thấy phía trong sân có một ông già đi ra, áo khoác vải xanh không gài cúc, mặt sáng sủa, trông biết ngay là một tay nhà giàu xứ quê. Tường đã nghĩ dứt khoát rồi, anh ta nói:

- Thưa cụ, có nước, xin cụ một bát!

- À!

Ông già xoa hai tay lấm vào ngực, nhìn Tường từ đầu đến chân rồi nhìn kỹ ba con lạc đà.

- Có đây! Ở đâu đến thế?

- Ớ phía tây kia, cụ ạ.

Tường không dám nói rõ, vì anh ta không biết đích xác.

- Bên phía tây có lính về kia mà!

Ông già nhìn chăm chăm vào cái quẩn lính của Tường.

- Cháu bị bọn chúng nó bắt, vừa trốn được ra đấy!

- Thế à! Lạc đà dắt qua cửa tây không can gì cả à?
- Bọn chúng nó rúc vào núi cả rồi, đường sá lại yên rồi, cụ ạ.

Ông già chậm rãi gật đầu:

- Ờ, anh chờ tí nhé, tôi vào lấy nước cho.

Tường cùng theo vào. Đến sân, anh ta trông thấy bốn con lạc đà.

- Hừ! Thành một đàn à? Ba mươi năm về trước, tôi đã từng có tới ba đàn kia! Bây giờ thời thế thay đổi rồi, ai nuôi nổi lạc đà được nữa!

Ông lão đứng thừ người ngắm bốn con vật kia, một lát, nói tiếp:

- Mấy hôm trước định cho chúng nó nhập bọn với mấy con của nhà bên hàng xóm đưa ra ngoài cửa khẩu để cho ăn cỏ non, nhưng phía đông có lính, phía tây cũng có lính, ai còn dám đi! Ngày hè thế này mà cứ để ở nhà, thật trông thấy mà xót ruột quá đi mất. Xem mấy con ruồi nhặng kìa! Mai kia nóng nực lên, lại còn muỗi nữa chứ, thật là cứ giương mắt lên mà nhìn những con vật khỏe mạnh thế kia phải chịu tội sống.

Ông già gật gù có vẻ cảm khái và buồn bực lắm.

- Cụ ạ, cụ lấy nốt ba con kia của cháu, nhập thành một đàn, cho nó đi ăn cỏ non cả thể. Loại vật này thích chạy nhảy, cả mùa hè để ở đây, ruồi muỗi đốt cũng đến chết dở.

Tường nói như van nài.

- Nhưng ai có tiền mà mua? Bây giờ đâu phải là lúc nuôi lạc đà!

- Cụ cứ lấy đi cụ ạ, cụ cho bao nhiêu cũng được. Bán rồi, cháu sẽ lên phố làm ăn.

Ông già lại chăm chú nhìn Tường một lượt nữa, thấy anh ta quả thật không phải trộm cướp, rồi quay lại nhìn mấy con vật đứng ngoài cửa, trong bụng có vẻ thích ba con lạc đà này lắm. Biết mua cũng chẳng ích gì, nhưng người thích sách thấy sách là muốn mua, người nuôi ngựa thấy ngựa là không rời ra nữa, người từng có ba đàn lạc đà cũng vậy thôi. Huống chi Tường lại nói là có thể bán rẻ. Người biết của thấy giá hời, thường quên không nghĩ mua về có ích gì không.

Ông già nói thực tình:

- Này anh này! Giá mà tôi có tiền thì tôi mua ngay đấy!

- Thôi cụ mua quách đi, gì mà không mua được!

Tường thành khẩn như thế, khiến ông già đâm khó xử.

- Nói thực tình, ba chục năm về trước thì mấy con này giá tới trăm rưỡi lạng; nhưng thời buổi này, loạn lạc, tôi... hay anh đến chỗ khác dạm xem sao!

- Cụ cho bao nhiêu cũng được thôi mà!

Tường không nghĩ ra được câu nào khác nữa. Anh ta biết ông cụ nói rất thực tình, nhưng anh ta không muốn chạy khắp nơi để hỏi bán - bán không được, có khi xảy ra chuyện gì lôi thôi cũng nên.

- Đây anh xem, hai ba chục đồng bạc, không nỡ mở miệng mà trả, nhưng xoay xở thêm cũng khó khăn lắm! Thời buổi này đành chịu!

Tường trong bụng hơi nản. Hai ba chục bạc? Còn lâu mới mua được xe! Nhưng một là, anh ta muốn bán ngay đi cho rồi, hai là, anh ta cũng không tin lại có thể may mắn gặp một người khách mua nữa.

- Cụ ạ, cụ cho bao nhiêu được bấy nhiêu.

- Thế nào? Xem anh không phải chuyên làm cái nghề này!

Tường liền nói thực.

- Ờ, thế ra anh đổi mạng lấy mấy con lạc đà này đấy ư?

Ông già có vẻ thương hại anh ta, mà cũng chẳng có vẻ yên tâm biết không phải của ăn cắp. Kể thì cũng chẳng khác gì của ăn cắp mấy, nhưng dù sao cũng còn có bọn lính nữa cơ mà. Sau cơn binh hỏa, chuyện gì cũng không thể cứ theo lẽ thường được.

- Thế này nhé! Tôi đưa anh ba mươi lăm đồng. Tôi nói đây không phải là giá hời thì tôi cứ là con chó, mà tôi đào đâu ra thêm được một đồng nữa thì tôi cũng là con chó! Tôi hơn sáu mươi tuổi đầu rồi, ờ, biết nói thế nào đây...

Tường đâm ra lúng túng, về chuyện tiền nong, anh ta xưa nay vốn riết róng lắm. Nhưng mấy ngày vừa qua sống với bọn lính tráng, nay bỗng được nghe mấy lời thành thật và có tình của ông lão, anh ta thấy không tiện cò kè nữa. Huống chi, cẩm chắc ba mươi lăm đồng trong tay còn vững hơn và hy vọng sẽ có hàng vạn đồng, mặc dù đổi mạng lấy ba mươi lăm đồng thì ít thật! Riêng chỉ nói ba con lạc đà to tướng còn sống kia cũng đã không thể, tuyệt đối không thể, chỉ đáng giá có ba mươi lăm đồng! Nhưng biết làm thế nào?

- Vâng, để cho cụ đấy! Cháu xin cụ một điều, cụ cho cháu một cái áo, và có gì ăn, cụ cho cháu xin một miếng.

- Cái đó thì được!

Tường uống một thôi nước lạnh, rồi cầm ba mươi lăm đồng bạc sáng loáng, hai ổ bánh, mặc cái áo cánh rách cài kín ngực. Anh ta chừng như muốn bước một bước lên tới phố.
Đăng bởi: